Giới thiệu tóm tắt mô hình: Sử dụng
tôm giống Post larvae 12-15 ương trong hệ thống nhà lưới Green House, mật độ
ương từ 0,5 – 1 con/lít, sau 25 – 30 ngày ương (giai đoạn PL40) tôm đạt kích cỡ
5-6 cm, trọng lượng 1- 1,5 gam/con tiến hành chuyển tôm qua ao nuôi với mật độ
200 – 250 con/m2.
Mục đích ương tôm từ PL12 đến PL40:
Tôm khỏe mạnh, sức đề kháng cao, có khả năng chống chịu tốt với những biến động
môi trường và dịch bệnh, đặc biệt là bệnh AHPND/EMS. Tốc độ tăng trưởng nhanh,
tôm đồng đều, tỷ lệ sống cao. Rút ngắn thời gian nuôi thương phẩm, giảm chi phí
nuôi ban đầu, hạn chế rủi ro trong quá trình nuôi, tăng vụ nuôi trên năm và
tăng sản lượng.
Nhà lưới Green House: là giải pháp
khắc phục khó khăn trong nuôi tôm do ảnh hưởng của biến đổi khí hậu và dịch bệnh
bùng phát. Ao nằm trong nhà lưới với độ che phủ 50 – 60%, giúp ao nuôi tách biệt
với môi trường bên ngoài, giảm cường độ chiếu sáng và giảm biên độ giao động
nhiệt độ giữa ngày và đêm, duy trì mật độ tảo ổn định và an toàn sinh học trong
quá trình nuôi. Vì vậy đây là mô hình nuôi bền vững khắc phục được những khó
khăn mà ngành nuôi tôm hiện nay đang gặp.
Mô hình này duy trì
sự ổn định môi trường nước, nên trong quy trình nuôi ít thay nước, bên cạnh đó
diện tích ao ương nhỏ lượng nước thay ít tiết kiệm tài nguyên nước.
Với việc sử dụng
tôm từ mô hình ương, thời gian ao nuôi rút ngắn xuống còn 60 – 75 ngày/vụ. Từ
đó tăng số vụ nuôi/năm. Tăng khả năng khai thác và sử dụng không gian, thời
gian tài nguyên đất. Khai thác có hiệu quả tài nguyên đất.
Mô
hình này có thể ứng dụng ở các vùng miền nuôi trồng thủy sản trên khắp cả nước
với điều kiện thời tiết, thủy lý thủy hóa khác nhau. Với chi phí đầu tư ban đầu
không lớn, dễ tiến hành trên những quy mô diện tích khác nhau.
Quy
trình nuôi không quá phức tạp phù hợp với trình độ người nuôi nước ta hiện nay.
Là mô hình dễ áp dụng, ổn định và bền vững, hiệu quả kinh tế cao vì vậy rất khả
thi khi cho áp dụng mô hình một cách rộng rãi.
Mô hình này được Bộ
Nông Nghiệp và Phát Triển Nông Thôn tặng giải thưởng Bông Lúa Vàng Việt Nam năm
2015, được Công nhận tiến bộ kỹ thuật và ghi danh vào Sách vàng sang tạo Việt
Nam.